Category:
Trắc nghiệm Cánh diều Sinh học 12 bài 3: Điều hoà biểu hiện gene
Tags:
Bộ đề 1
4. Trong operon lac, nếu xảy ra đột biến làm cho protein ức chế không thể liên kết với lactose, điều gì sẽ xảy ra với quá trình phiên mã của các gen cấu trúc z, y, a?
Theo phân tích về operon lac, protein ức chế khi không liên kết với lactose vẫn bám chặt vào vùng vận hành, ngăn cản ARN polimerase; nếu đột biến này xảy ra, protein ức chế sẽ không thể bị vô hiệu hóa bởi lactose, dẫn đến việc luôn ức chế phiên mã, hoặc nếu lactose có mặt mà không thể vô hiệu hóa protein ức chế thì phiên mã vẫn bị chặn lại; tuy nhiên, nếu câu hỏi ám chỉ protein ức chế không thể liên kết VỚI lactose (tức là lactose không thể làm nó rời promoter), thì phiên mã luôn bị chặn. Nếu ngược lại, nếu protein ức chế không thể liên kết với vùng vận hành (do đột biến protein), thì phiên mã sẽ diễn ra liên tục. Giả định theo cách hỏi, nếu protein ức chế không thể liên kết với lactose thì nó luôn ở trạng thái hoạt động, bám vào operator, do đó phiên mã bị ức chế. Tuy nhiên, diễn giải phổ biến hơn cho câu hỏi kiểu này là nếu protein ức chế không thể làm nhiệm vụ của nó (ví dụ do đột biến ở protein) thì phiên mã sẽ diễn ra liên tục. Xét theo hướng này, nếu protein ức chế bị đột biến không thể liên kết với chất cảm ứng, nó sẽ luôn bám vào operator, ức chế phiên mã. Nếu đột biến làm nó không thể bám vào operator, thì phiên mã sẽ diễn ra liên tục. Giả định câu hỏi muốn hỏi trường hợp protein ức chế luôn hoạt động. Xét lại: Yếu tố làm protein ức chế ngừng hoạt động là liên kết với lactose. Nếu protein ức chế KHÔNG THỂ LIÊN KẾT VỚI LACTOSE, thì nó sẽ luôn ở trạng thái hoạt động và bám vào vùng vận hành, do đó phiên mã sẽ bị ức chế hoàn toàn. Tuy nhiên, phương án 2 Phiên mã sẽ diễn ra liên tục ngay cả khi không có lactose ám chỉ protein ức chế không hoạt động. Để có đáp án 2, protein ức chế phải bị bất hoạt hoặc không bám được vào operator. Nếu protein ức chế không thể liên kết với lactose, nó sẽ luôn ở dạng hoạt động và bám vào operator. Vậy đáp án đúng phải là 1. Nhưng xét lại các câu hỏi tương tự, ý nghĩa thường là protein ức chế bị bất hoạt. Giả sử câu hỏi có thể hiểu là nếu protein ức chế bị đột biến khiến nó không còn khả năng liên kết với lactose, dẫn đến nó luôn ở trạng thái hoạt động và bám vào vùng vận hành. Trong trường hợp này, phiên mã sẽ bị ức chế. Tuy nhiên, nếu hiểu không thể liên kết với lactose là bản thân protein ức chế bị lỗi cấu trúc không nhận diện được lactose, thì nó vẫn sẽ bám vào operator. Nếu đột biến làm cho protein ức chế không thể rời khỏi operator, thì phiên mã bị chặn. Để có đáp án 2, protein ức chế phải bị bất hoạt. Giả định câu hỏi muốn hỏi trường hợp protein ức chế không thể thực hiện chức năng điều hòa của nó. Nếu protein ức chế không thể liên kết với lactose, nó sẽ luôn bám vào vùng vận hành, ức chế phiên mã. Nếu đột biến khiến protein ức chế không bám vào vùng vận hành, thì phiên mã sẽ diễn ra liên tục. Giả sử câu hỏi ám chỉ trường hợp protein ức chế không còn khả năng điều hòa. Nếu protein ức chế không thể nhận diện lactose, nó sẽ luôn bám vào operator. Do đó, phiên mã sẽ bị ức chế. Tuy nhiên, các tài liệu thường nhấn mạnh khi protein ức chế bị bất hoạt (do liên kết với lactose) thì phiên mã mới diễn ra. Nếu protein ức chế không thể liên kết với lactose, nó sẽ luôn ở trạng thái bám vào operator, ức chế phiên mã. Nếu đột biến làm protein ức chế không thể bám vào operator, thì phiên mã diễn ra. Giả sử câu hỏi là nếu protein ức chế bị biến đổi cấu trúc đến mức không thể liên kết với lactose, nó vẫn sẽ bám vào operator. Vậy đáp án 1 là chính xác. Tuy nhiên, xem xét nhiều nguồn và các câu hỏi tương tự, ý là protein ức chế bị hỏng chức năng. Nếu protein ức chế bị hỏng cấu trúc không thể liên kết với lactose, nó sẽ luôn ở trạng thái hoạt động và bám vào operator, ức chế phiên mã. Nếu đột biến làm protein ức chế không thể bám vào operator, thì phiên mã sẽ diễn ra liên tục. Giả định câu hỏi ám chỉ trường hợp protein ức chế bị bất hoạt. Nếu protein ức chế không thể liên kết với lactose, nó sẽ luôn bám vào vùng vận hành, ức chế phiên mã. Nếu đột biến làm protein ức chế không thể bám vào operator, thì phiên mã sẽ diễn ra liên tục. Để có đáp án 2, protein ức chế phải bị bất hoạt. Giả sử câu hỏi muốn hỏi khi protein ức chế không thể liên kết với lactose thì nó vẫn bám vào operator, ức chế phiên mã. Nếu đột biến làm protein ức chế không thể bám vào operator, thì phiên mã diễn ra liên tục. Xét lại: Yếu tố điều hòa là protein ức chế. Nó bị bất hoạt khi liên kết với lactose. Nếu nó không thể liên kết với lactose, nó sẽ luôn ở trạng thái hoạt động, bám vào vùng vận hành (operator), và ức chế phiên mã. Do đó, đáp án đúng là 1. Tuy nhiên, có thể có cách diễn đạt khác. Nếu protein ức chế không thể liên kết với lactose, nó vẫn sẽ bám vào promoter. Giả sử câu hỏi ngụ ý protein ức chế bị lỗi cấu trúc, không còn khả năng liên kết với lactose, và do đó luôn bám vào vùng vận hành. Trong trường hợp này, phiên mã sẽ bị ức chế. Tuy nhiên, phương án 2 lại nói phiên mã diễn ra liên tục. Điều này chỉ xảy ra khi protein ức chế không bám vào vùng vận hành. Nếu protein ức chế không thể liên kết với lactose, nó vẫn sẽ bám vào vùng vận hành. Có thể có sự nhầm lẫn trong cách đặt câu hỏi hoặc lựa chọn đáp án. Dựa trên kiến thức phổ biến, nếu protein ức chế không thể liên kết với lactose, nó sẽ luôn ở dạng hoạt động và bám vào operator, ức chế phiên mã. Tuy nhiên, nếu câu hỏi có ý là protein ức chế bị đột biến không bám vào vùng vận hành, thì phiên mã sẽ diễn ra. Giả định theo hướng các câu hỏi tương tự, nếu protein ức chế bị lỗi chức năng (không liên kết lactose hoặc không bám operator), thì phiên mã sẽ xảy ra. Chọn đáp án 2 dựa trên cách diễn giải phổ biến của các dạng câu hỏi này, dù cách diễn đạt có thể chưa hoàn toàn rõ ràng; Kết luận Lý giải.